Địa lý Tây_Ban_Nha

Bài chi tiết: Địa lý Tây Ban Nha
Bản đồ địa hình Tây Ban Nha

Tây Ban Nha nằm tại miền tây nam châu Âu, chiếm hầu hết (85%) bán đảo Iberia, và còn bao gồm quần đảo Baleares tại Địa Trung Hải, quần đảo Canaria tại Đại Tây Dương, và năm địa phương có chủ quyền (Plazas de soberanía) nằm trên hoặc ngoài khơi bờ biển tây bắc châu Phi: Ceuta, Melilla, Islas Chafarinas, Peñón de Alhucemas, và Peñón de Vélez de la Gomera. Đại lục Tây Ban Nha về phía đông và nam gần như hoàn toàn giáp với Địa Trung Hải (trừ một đoạn nhỏ biên giới trên bộ với Gibraltar); về phía bắc giáp Pháp, Andorravịnh Biscay; về phía tây giáp Đại Tây DươngBồ Đào Nha. Tây Ban Nha có diện tích 504.030 km², là quốc gia lớn thứ tư tại châu Âu, và có độ cao trung bình là 650 m. Trong đó, 499.542 km² là mặt đất và 5.240 km² là mặt nước.[53]

Tây Ban Nha nằm giữa 36° và 44° vĩ Bắc, giữa 19° kinh Tây và 5° kinh Đông. Tây Ban Nha về mặt địa lý nằm trong múi giờ UTC±0:00 do có kinh tuyến Greenwich đi qua lãnh thổ. Tuy nhiên, kể từ năm 1940 Tây Ban Nha sử dụng múi giờ UTC+1:00 hay còn gọi là múi giờ Trung Âu, riêng quần đảo Canaria dùng múi giờ UTC±0:00. Tây Ban Nha sử dụng múi giờ mùa hè. Bờ biển Đại Tây Dương của Tây Ban Nha dài 710 km. Dãy núi Pyrénées trải dài 435 km từ Địa Trung Hải đến vịnh Biscay. Tại cực nam của Tây Ban Nha là eo biển Gibraltar, nó chia tách bán đảo Iberia và châu Âu với Maroc tại Bắc Phi; điểm hẹp nhất của eo biển chỉ rộng 13 km. Tài nguyên thiên nhiên của Tây Ban Nha gồm có than đá, than non, quặng sắt, uran, thuỷ ngân, pyrit, fluorspar, thạch cao, kẽm, chì, wolfram, đồng, kaolin, potash, sepiolit.

Meseta Central chiếm phần lớn khu vực đại lục của Tây Ban Nha, nó là một cao nguyên vùng cao bị các dãy núi vây quanh và chia cắt. Các địa hình khác gồm các đồng bằng hẹp ven biển và một số thung lũng sông vùng thấp, đáng chú ý nhất là đồng bằng Andalucía tại tây nam. Quốc gia có thể được chia thành mười vùng hoặc phân vùng tự nhiên: Meseta Central chi phối, dãy núi Cantabrica (Cordillera Cantabrica) và vùng tây bắc, vùng Ibérico, Pyrénées, vùng Penibético tại đông nam, đồng bằng Andalucía, bồn địa Ebro, các đồng bằng ven biển, quần đảo Baleares, và quần đảo Canaria. Chúng thường được nhóm thành bốn loại hình: Meseta Central và các dãy núi liên kết, các vùng núi khác, các vùng đất thấp, và các đảo.

Vùng núi

Meseta Central là cao nguyên chiếm ưu thế tại nội lục Tây Ban Nha

Meseta Central ("cao nguyên nội lục") là một cao nguyên lớn nằm tại trung tâm của đại lục Tây Ban Nha, có độ cao từ 640 m đến 760 m. Cao nguyên có các dãy núi bao quanh, dốc nhẹ về phía tây và đến hàng loạt sông tạo thành một số đoạn biên giới với Bồ Đào Nha. Hệ thống dãy núi Sistema Central được miêu tả là "cột sống" của Meseta Central, nó chia Meseta thành các phân vùng phía bắc và phía nam, phần phía bắc cao hơn và nhỏ hơn phần phía nam. Sistema Central bao quanh thủ đô Madrid với các đỉnh núi cao đến 2.400 m về phía bắc thành phố. Phía tây Madrid, Sistema Central có đỉnh cao nhất là Pico Almanzor với 2.592 m. Các núi của Sistema Central có một số đặc điểm băng hà: Phần cao nhất của các đỉnh có tuyết phủ trong hầu hết năm. Mặc dù có độ cao lớn, song hệ thống núi này không tạo chướng ngại lớn giữa các phần miền bắc và miền nam của Meseta Central do có nhiều đèo tạo điều kiện cho giao thông đường bộ và đường sắt đến tây bắc và đông bắc.

Phần phía nam của Meseta (tiếng Tây Ban Nha: Submeseta Sur) lại được phân chia bởi dãy núi đôi, Montes de Toledo chạy sang phía đông cùng với Sierra de Guadalupe chạy về phía tây. Các đỉnh của chúng không vượt quá 1.500 m. Chúng có nhiều đèo dễ vượt qua, trong đó có đèo nối Meseta với đồng bằng Andalucía, Montes de Toledo không phải là trở ngại cho giao thông và thông tin. Chuỗi này gồm các dãy núi thấp tách biệt khỏi Sistema Central về phía bắc qua sông Tagus dài nhất bán đảo.

Các vùng núi bao quanh Meseta Central và gắn liền với nó là Sierra Morena, Cordillera Cantábrica, và Sistema Ibérico. Sierra Morena tạo thành rìa nam của Meseta Central, tại phía đông nó hợp nhất với phần mở rộng về phía nam của Sistema Iberico, và vươn về phía tây dọc rìa bắc của thung lũng sông Guadalquivir để hợp cùng các dãy núi tại miền nam Bồ Đào Nha. Khối núi Sierra Morena kéo dài về phía bắc đến sông Guadiana, sông này tách nó khỏi Sistema Central. Mặc dù có độ cao tương đối thấp, hiếm khi vượt quá 1.300 m, song dãy núi Sierra Morena có địa hình gồ ghề tại rìa nam. Cordillera Cantábrica là một thành hệ đá vôi, chạy song song và nằm gần bờ biển phía bắc, gần vịnh Biscay. Đỉnh cao nhất của nó là Picos de Europa, vượt 2.600 m. Cordillera Cantábrica trải dài 182 km và đột ngột dốc xuống gần bờ biển. Về phía tây là các vùng đồi của vùng tây bắc, và phía đông là dãy núi Basque liên kết nó với Pyrénées. Sistema Ibérico trải dài từ Cordillera Cantábrica về hướng đông nam, gần Địa Trung Hải, trải dài từ sông Ebro đến sông Júcar. Các sườn núi khô cằn và gồ ghề của dãy núi này có diện tích gần 21.000 km². Dãy núi vượt 2.000 m tại phần miền bắc của nó và đạt độ cao lớn nhất trên 2.300 tại phía đông đầu nguồn sông Duero. Dãy núi có sườn cực kỳ dốc, thường bị cắt xẻ thành những hẻm núi sâu và hẹp.

Picos de Europa tại miền bắc Tây Ban Nha

Dãy Pyrénées trải dài từ rìa đông của Cordillera Cantábrica đến Địa Trung Hải, tạo hành một hàng rào vững chắc ngăn cách Tây Ban Nha và Pháp, giữ vai trò là biên giới tự nhiên trong suốt lịch sử. Có thể đi lại dễ dàng tại địa hình tương đối thấp tại cực đông và tây của dãy núi, tại đó có các tuyến đường sắt và đường bộ quốc tế vượt biên giới. Tuy nhiên, phần giữa của dãy Pyrénées sẽ gây khó khăn cho việc đi lại. Tại một vài nơi, có các đỉnh cao trên 3.000 m; đỉnh cao nhất là Pico de Aneto vượt 3.400 m.

Sistema Penibético trải dài từ cực nam của Tây Ban Nha hướng về phía đông bắc, chạy song song với bờ biển cho đến khi hợp nhất với phần kéo dài về phía nam của Sistema Ibérico gần sông Júcar và với phần mở rộng về phía đông của Sierra Morena. Sierra Nevada là bộ phận của Sistema Penibético phía nam Granada, dãy này có đỉnh cao nhất bán đảo và đại lục Tây Ban Nha là Mulhacén với 3.479 m. Các đỉnh cao khác của dãy cũng vượt 3.000 m.

Vùng thấp và hải đảo

Teide là đỉnh cao nhất tại Tây Ban Nha (Tenerife, quần đảo Canaria)

Các vùng thấp chính là đồng bằng Andalucía tại phía tây nam, bồn địa Ebro tại đông bắc, và các đồng bằng ven biển. Đồng bằng Andalucía về cơ bản là một thung lũng sông rộng, có sông Guadalquivir chảy qua. Sông mở rộng dọc theo dòng chảy, đạt đến điểm rộng nhất tại vịnh Cadiz. Bao quanh đồng bằng Andalucía ở phía bắc là Sierra Morena và ở phía nam là Sistema Penibético; nó trải dài đến một đỉnh ở phía đông nơi hai chuỗi núi này gặp nhau. Bồn địa Ebro được tạo thành từ thung lũng sông Ebro, có các dãy núi giới hạn tại ba mặt—Sistema Ibérico về phía nam và tây, Pyrénées về phía bắc và đông, và phần mở rộng ven biển của nó song song vời bờ phía đông. Các thung lũng sông nhỏ tại vùng thấp gần biên giới với Bồ Đào Nha thuộc lưu vực sông Tagus và Guadiana.

Các đồng bằng ven biển là các dải hẹp nằm giữa các dãy núi ven biển và biển cả. Chúng rộng nhất là dọc vịnh Cádiz, tại đây đồng bằng ven biển liền kề đồng bằng Andalucía, và dọc các bờ biển phía nam và giữa phía đông. Đồng bằng ven biển hẹp nhất chạy dọc vịnh Biscay, tại đây Cordillera Cantábrica kết thúc gần bờ biển.

Khu vực còn lại của Tây Ban nha là quần đảo Baleares tại Địa Trung Hải và quần đảo Canaria tại Đại Tây Dương. Quần đảo Baleares có tổng diện tích 5.000 km², cách 80 km ngoài khơi bờ biển phần giữa phía đông của Tây Ban Nha. Các dãy núi vươn lên từ Địa Trung Hải tạo thành các đảo này, chúng là phần mở rộng của Sistema Penibetico. Điểm cao nhất của quần đảo có độ cao 1.400 m, nằm tại phần tây bắc của Mallorca, gần bờ biển. Phần trung tâm của Majorca là một đồng bằng, bị giới hạn về phía đông và đông nam bởi các vùng đồi đứt đoạn. Quần đảo Canaria nằm cách 90 km ngoài khơi bờ biển phía tây của châu Phi, chúng có nguồn gốc núi lửa. TenerifeGran Canaria là các đảo trung tâm, có các đỉnh cao nhất. Pico de Las Nieves tại Gran Canaria có chiều cao 1.949 m, và Teide tại Tenerife có chiều cao 3.718 m. Teide là một núi lửa đã tắt, đây là đỉnh cao nhất Tây Ban Nha và là núi lửa lớn thứ ba thế giới tính từ chân núi.

Thuỷ văn

Sông Guadalquivir đoạn chảy qua Córdoba

Có khoảng 1.800 sông và dòng chảy tại Tây Ban Nha, trong số đó Tagus là sông dài nhất với 1.007 km, hầu hết các sông có dòng chảy ngắn. Các sông ngắn này mang lượng nước nhỏ và không đều, và chúng có lòng sông khô theo mùa; tuy nhiên khi chúng chảy thì thường nhanh và cuồn cuộn. Hầu hết các sông khởi nguồn từ các dãy núi bao quanh hoặc chia cắt Meseta Central và chảy về phía tây qua cao nguyên sang Bồ Đào Nha rồi đổ vào Đại Tây Dương. Một ngoại lệ đáng chú ý là sông Ebro có dòng chảy dồi dào nhất tại Tây Ban Nha, nó chảy về phía đông rồi đổ vào Địa Trung Hải. Các sông tại cực tây bắc và tại đồng bằng ven biển phía bắc đổ trực tiếp vào Đại Tây Dương. Bờ biển tây bắc cũng bị cắt xẻ.

Các sông lớn chảy về phía tây qua Meseta Central gồm có Duero, Tagus, GuadianaGuadalquivir. Sông Guadalquivir là một trong các sông quan trọng nhất tại Tây Ban Nha vì nó tưới tiêu cho một thung lũng phì nhiêu, tạo nên một vùng nông nghiệp trù phú, và do tàu thuyền có thể thông hành trên sông vào nội lục, khiến Sevilla là cảng sông nội lục duy nhất có thể lưu thông đường biển tại Tây Ban Nha. Sông chính tại vùng tây bắc là Miño. Đập El Atazar là một đập lớn được xây gần Madrid để cung cấp nước.

Tình trạng thiếu nước tạo ra một mối đe doạ nghiêm trọng cho Tây Ban Nha. Khan hiếm nước là vấn đề quan trọng tại nhiều khu vực khắp đất nước và biến đổi khí hậu có thể làm trầm trọng thêm vấn đề, với các giai đoạn thời tiết khô hạn kéo dài hơn. Các vấn đề cung cấp thường xuyên xảy ra tại bồn địa Jucar vào mùa hè. Tại bồn địa Segura, khan hiếm nước dẫn đến việc tăng giá nước. Về tổng thể, khu vực phía đông nam của Tây Ban Nha đặc biệt dễ bị tổn hại do thiếu nước. Hơn nữa, các khu vực rộng lớn ven Địa Trung Hải đã bị tác động từ xâm nhập mặn.

Khí hậu

Bờ biển Địa Trung Hải tại Cartagena, vùng Murcia.

Tây Ban Nha có thể được tách thành ba vùng khí hậu chính, dựa theo vị trí địa lý và điều kiện địa hình:[54][55][56]

  • Khí hậu Địa Trung Hải có đặc điểm là mùa hè ấm/nóng và khô, kiểu khí hậu này chi phối tại bán đảo. Nó có hai dạng là Csa và Csb theo phân loại khí hậu Köppen.
    • Đới Csa gắn với các khu vực có mùa hè nóng. Nó chi phối tại bờ biển và nội lục Địa Trung Hải và miền nam giáp Đại Tây Dương suốt Andalucía, Extremadura và hầu hết phần trung tâm đất nước. Csa gồm các vùng khí hậu có mùa đông tương đối ấm lẫn lạnh, vốn được cho là cực kỳ khác biệt với nhau ở cấp độ địa phương, do đó phân loại Köppen thường bị bỏ qua tại Tây Ban Nha. Các bản đồ khí hậu địa phương thường chia vùng Địa Trung Hải (bao trùm hầu hết đất nước) thành các vùng mùa đông ấm và mùa đông lạnh, thay vì theo nhiệt độ mùa hè.
    • Đới Csb có mùa hè ấm thay vì nóng, và mở rộng thêm các khu vực có mùa đông mát không tiêu biểu cho khí hậu Địa Trung Hải, như phần lớn miền trung và bắc-trung của Tây Ban Nha (miền tây Castilla–León, miền đông bắc Castilla-La Mancha và miền bắc Madrid) và đến các khu vực mưa nhiều hơn (đáng chú ý là Galicia). Chú ý là các khu vực có lượng mưa tương đối cao như Galicia không được cho là có khí hậu Địa Trung Hải theo phân loại địa phương, mà được phân loại là đại dương.
  • Khí hậu bán khô hạn (BSk, BSh) chi phối tại một phần tư đông nam của quốc gia, song cũng lạn rộng tại nhiều khu vực khác. Nó bao trùm hầu hết vùng Murcia, miền nam Valencia và miền đông Andalucía, nơi này cũng tồn tại khí hậu hoang mạc nóng thực sự. Xa về phía bắc, nó chi phối tại thượng du và trung du thung lũng Ebro chảy qua miền nam Navarra, miền trung Aragón và miền tây Cataluña. Nó cũng tồn tại ở Madrid, Extremadura, Castilla-La Mancha, và một số địa điểm thuộc miền tây Andalucía. Mùa khô kéo dài qua mùa hè và nhiệt độ trung bình tuỳ thuộc vào cao độ và vĩ độ.
  • Khí hậu đại dương (Cfb), nằm tại một phần tư miền bắc của quốc gia, đặc biệt là vùng ven Đại Tây Dương (Xứ Basque, Cantabria, Asturias, và một phần Galicia cùng Castilla–León). Ngoài ra, nó còn hiện diện tại miền bắc Navarra, tại hầu hết các khu vực vùng cao dọc Sistema Ibérico và trong các thung lũng Pyrénees- tại đây cũng tồn tại một biến thể cận nhiệt đới ẩm (Cfa). Nhiệt độ mùa đông và mùa hè chịu tác động từ biển, và không bị hạn hán theo mùa.

Ngoài các kiểu khí hậu chính này, còn có các kiểu phụ khác, như khí hậu núi cao và khí hậu lục địa (Dfc, Dfb / Dsc, Dsb) trên dãy Pyrénées cũng như nhiều nơi tại Cordillera Cantábrica, Sistema Central, Sierra NevadaSistema Ibérico, và có một khí hậu hoang mạc đặc trưng (BWk, BWh) tại vùng Almería, Murcia và miền đông quần đảo Canaria. Các vùng thấp của quần đảo Canaria có nhiệt độ trung bình trên 18,0 °C vào tháng mùa lạnh nhất, do đó có khí hậu nhiệt đới.

Động thực vật

Hệ động vật của Tây Ban Nha đa dạng ở mức cao, phần nhiều là do vị trí địa lý thuộc bán đảo Iberia giữa Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, giữa châu Phi và châu Âu, và có sự đa dạng lớn về môi trường sống và sinh cảnh nhờ có nhiều loại khí hậu và các vùng khác biệt lớn. Một số loài bản địa của Tây Ban Nha lan truyền khắp thế giới, như thỏ châu Âu thời cổ đại, hay loài chim yến Đại Tây Dương thời hiện đại. So với châu Âu, Tây Ban Nha có mức độ đa dạng sinh học cao, và có số lượng các loài có xương sống lớn nhất (khoảng 570) trong số các quốc gia châu Âu.

Chó sói Iberia

Tại bán đảo Iberia có thể tìm thấy các loài đã biến mất tại các khu vực khác của châu Âu, đó là do trong quá khứ Tây Ban Nha là lãnh thổ có dân cư thưa thớt so với các quốc gia như Đức, Anh hay Ý. Hơn nữa, Tây Ban Nha còn công nghiệp hoá muộn, song cũng gây ra suy giảm số lượng các loài và tuyệt chủng một số loài khác trong suốt thế kỷ XX. Hiện nay, có nhiều loài hiện diện có nguồn gốc từ động vật châu Phi, như tắc kè hoa, rùa cạn. Trong số các loài ăn thịt lớn, có hai loài đã biến mất tại phần lớn Tây Âu: Gấu nâu sống sót trên dãy Cantabria và một số vùng cô lập trên dãy Pyrénées; chó sói Iberia là phân loài đặc hữu của bán đảo. Trong số các loài ăn thịt tiêu biểu nhất, chắc chắn là có linh miêu Iberia, là loài thuộc họ Mèo bị đe doạ lớn nhất tại châu Âu. Sơn dương Tây Ban Nha là một loài đặc hữu, nó phân bố rải rác trên bán đảo. Số lượng các loài chim tại bán đảo Iberia rất cao so với các hệ động vật châu Âu khác, một phần là do các loài chim từ Bắc Âu và châu Phi hạ Sahara đến trú đông hoặc làm tổ tại đây. Quần đảo Canaria cũng có các loài chim và thú đặc hữu.

Hệ thực vật Tây Ban Nha phụ thuộc vào nhiều yếu tố như địa hình, khí hậu và vĩ độ. Lãnh thổ Tây Ban Nha được chia thành các vùng địa lý thực vật khác nhau (vùng cực núi cao, châu Âu-Siberia, Địa Trung Hải, và Macaronesia tại Canaria), mỗi vùng có các đặc đểm thực vật riêng phần lớn là do tương tác giữa các nhân tố sinh học và phi sinh học khác nhau. Trong châu Âu, Tây Ban Nha có số lượng loài thực vật lớn nhất (7.600 loài thực vật có mạch). Hệ thực vật tại quần đảo Canaria có tính đặc hữu cao, với hơn 500 loài đặc hữu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tây_Ban_Nha http://www.ucalgary.ca/applied_history/tutor/eurvo... http://www.airbus.com/en/presscentre/pressreleases... http://www.army-technology.com/features/feature129... http://www.bank-holidays.com/holidays_2007_58.htm http://www.britannica.com/EBchecked/topic/557573/S... http://www.channel4.com/history/microsites/H/histo... http://www.city-data.com/forum/attachments/weather... http://edition.cnn.com/2006/WORLD/europe/06/18/cat... http://www.demographia.com/db-worldua.pdf http://www.dw.com/en/spain-logs-record-number-of-t...